Chi bộ Đảng

Sơ lược Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

11/23/2012 7:07:04 PM

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là một mốc son lịch sử đánh dấu bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, đưa cuộc đấu tranh của dân tộc vào thời kỳ phát triển mới.

   


quocky.jpg


 I. Lịch sử hình thành và phát triển của Đảng    

Hơn 80 năm qua, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước các nhiệm vụ lịch sử, Đảng và Bác Hồ đã kịp thời xác định đúng đắn, sáng tạo đường lối, chiến lược, sách lược đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

 

     1. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xác định đúng đắn đường lối cách mạng, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới của độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Trước năm 1930 khi chưa có Đảng, đất nước ta chìm đắm dưới ách thống trị, áp bức hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân Pháp và hàng trăm năm của chế độ phong kiến thối nát. Biết bao cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra nhưng kết cục đều thất bại do thiếu một đường lối chính trị đúng đắn soi đường. Phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ "Cần Vương" của các sĩ phu yêu nước lãnh đạo cùng với các cuộc khởi nghĩa nông dân lấy hệ tư tưởng phong kiến làm nền tảng đã tỏ ra lỗi thời, bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Các phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản dân tộc cũng nhanh chóng lộ rõ sự yếu hèn, thất bại trước các nhiệm vụ lịch sử. Chỉ có phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động cách mạng, kiên trì mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là giành được những thắng lợi vẻ vang.

 

     Sự lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã sớm nhận ra rằng, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết cách mạng và khoa học nhất về con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Ngay từ những năm đầu thập niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có sự lựa chọn đúng đắn khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam: "không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Trải qua thực tiễn cuộc sống, hoạt động cách mạng phong phú và tiếp thu chân lý khoa học, Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc.

 

     2. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, chính sách áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp đã làm tích tụ những mâu thuẫn gay gắt giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân và bè lũ tay sai. Những mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng con đường cách mạng bạo lực và thực hành cuộc cách mạng không ngừng, cách mạng “đến nơi”. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định rõ mối quan hệ khăng khít giữa các nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc, dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta đã xác định rõ "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"; "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập".

 

     Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường".

 

     3. Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn. Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị lực lượng với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (10/5 - 19/5/1941) đã có quyết định chuyển hướng chiến lược đấu tranh cách mạng kịp thời thành lập Mặt trận Việt minh, ra lời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đoàn kết, đứng lên chống phát-xít, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Sau khi phát-xít Đức, Ý bại trận, phát-xít Nhật sửa soạn đầu hàng (7/1945),  Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần và nhắc nhở các đồng chí Trung ương: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập"

 

     Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây dựng với bảo vệ chính quyền cách mạng; trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy xây dựng làm điều kiện cho bảo vệ. Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Bác Hồ đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo - "Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lấy sức mình là chính", kháng chiến đi đôi với kiến quốc để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Qua đó, làm chuyển hoá thế trận, thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

 

     Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng miền Nam vẫn tạm thời bị Mỹ, ngụy chiếm đóng. Trên cơ sở phân tích tình hình, nhận thức rõ những mâu thuẫn khác nhau ở mỗi miền Nam, Bắc, Đảng và Hồ Chí Minh đã xác định đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là vừa tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành triệt để cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc trong cả nước, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. Điều đáng chú ý là cả hai cuộc cách mạng đó đều được xác định nằm trong quỹ đạo cách mạng vô sản và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Hiện nay nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là gì? Là xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội". Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước không được phép lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.

 

      4. Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, đất nước chồng chất khó khăn càng làm nổi bật những thành tựu đạt được sau 25 năm đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử, khẳng định lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực và tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đất nước có hoà bình, thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng với mô hình và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa áp dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai lầm của nó. Nhưng sau mỗi sai lầm, vấp ngã, Đảng đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật", kiên quyết sửa chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ những thành công và cả những sai lầm, thất bại, kiên trì sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

     Hai mươi lăm năm qua với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng cách mạng cầm quyền dày dạn kinh nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vươn lên giành nhiều thắng lợi mới. Mô hình, mục tiêu và con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Mặc dù cách mạng còn nhiều khó khăn, lâu dài nhưng nhất định thắng lợi. Bởi đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử nhân loại. Đường lối đổi mới của Đảng xa lạ với những gì mà kẻ thù lâu nay vẫn ra sức tuyên truyền xuyên tạc rằng con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta là "sản phẩm ngoại nhập, không có tương lai". Nhất là từ sau những sai lầm về đường lối cải tổ dẫn tới sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thế kỷ XX. Kẻ thù đã lớn tiếng tuyên bố rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phủ định ngay tại quê hương của nó bởi sự lỗi thời; hơn nữa, khi du nhập vào Việt Nam đã bị cắt xén, biến dạng thành bạo lực đấu tranh; kinh tế trì trệ, suy thoái, khủng hoảng…; là những biểu hiện của “hồi kết”, “Chương thử nghiệm cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản"; "sự toàn thắng của chủ nghĩa tư bản".v.v.. Nhưng thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 25 năm qua của dân tộc ta đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc xằng bậy đó của kẻ thù.

 

      Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân, bám sát thực tiễn cuộc sống, xác định đường lối, chính sách đúng đắn và nhanh chóng đưa vào cuộc sống hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân dân là bí quyết thành công của Đảng ta. Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới là đổi mới tư duy nhưng trọng tâm lại là đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 

     Để tiếp tục tạo cơ sở vững chắc trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong những năm tới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định rõ 8 phương hướng cơ bản để toàn Đảng, toàn dân ta quán triệt và thực hiện: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

 

     Với những phương hướng cơ bản trên, chắc chắn trong thời gian tới, Đảng ta sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên không ngừng, đạt được nhiều thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.


    II.  Các kỳ Đại Hội Đảng Cộng sản Việt Nam Từ Đại Hội I Đến Đại Hội X

    
      1. Đại Hội I
:

     Diễn ra từ ngày 27-31/3/1935 tại Ma Cao (Trung Quốc) do đồng chí Hà Huy Tập chủ trì. Đại hội có 13 đại biểu đại diện cho các tổ chức cơ sở Đảng trong nước và ngoài nước. ĐH bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. (Đến tháng 10/1936 TƯ Đảng được tổ chức lại, đồng chí Hà Huy Tập làm TBT; tháng 3/1938 BCH TƯ Đảng họp Hội nghị toàn thể, bầu Nguyễn Văn Cừ làm TBT; tháng 11/1940, Hội Nghị TƯ 7, Trường Chinh được phân công làm quyền TBT; tại Hội nghị Trung ương VIII (5/1941), đồng chí Trường Chinh được bầu làm TBT).

      2. Đại Hội II:

     Diễn ra từ ngày 11-19/2/1951 tại xã Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, thay mặt cho hơn 73 vạn đảng viên. Đồng chí Tôn Đức Thắng đọc diễn văn khai mạc ĐH. ĐH thông qua báo cáo chính trị của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, báo cáo “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới CNXH” của đồng chí Trường Chinh. ĐH còn thông qua Chính cương của Đảng Lao Động Việt Nam (Đảng ra hoạt động công khai và lấy tên này). Chính cương xác định mâu thuẫn chủ yếu lúc bấy giờ là tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa, xác định đối tượng chính của CM VN là CNĐQ xâm lược Pháp và can thiệp Mĩ, ngoài ra còn có bọn phong kiến phản CM. Chính cương nêu ra nhiệm vụ của CMVN là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập thống nhất, xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế dộ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho CNXH; chính cương còn nêu ra 15 chính sách lớn của Đảng.
Đh bầu ra BCH TƯ gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. BCHTƯ đã bầu Bộ chính trị có 7 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết. Đh bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh là Chủ tịch Đảng, bầu đc Trường Chinh làm TBT.

     3. Đại Hội III

     Diễn ra từ ngày 5-10/9/1960 tại Hà Nội. Có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước.
Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “ĐH lần này là ĐH xây dựng CNXh ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”
ĐH thông qua Nghị quyết về “Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới” đó là đẩy mạnh CM XHCN ở miền Bắc và tiến hành CM Dân tộc dân chủ nhân dân (DTDCND) ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
ĐH xác định vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược CM ở mỗi miền: CMXHCN ở MB giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng VN và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. CMDTDCND ở MN giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà, hoàn thành CMDTDCND trong cả nước.
ĐH đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở miền Bắc nước ta là : “Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống của nhân dân ta và đoàn kết với các nước XHCN đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố MB trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”
ĐH bầu ra BCHTƯ gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. BCHTU đã bầu ra Bộ chính trị gồm 11 ủy viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng. Đc Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất BCH TƯ Đảng.

     4. Đại Hội IV

     Diễn ra từ ngày 14-20/12/1976 tại Hà Nội. Dự Đh có 1008 đại biểu thay mặt cho hơn 1.5 triệu đảng viên trong cả nước. ĐH thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976-1980, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.
ĐH quyết định đổi tên Đảng Lao Động VN thành Đảng CSVN.
ĐH xác định đường lối chung của CMMN trong thời gian tới: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành dồng thời 3 cuộc CM: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học – kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh CNH XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ; xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn XHCN, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới XHCN; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc VN hòa bình, độc lập, thống nhất và CNXH; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
     ĐH xác định đường lối xây dựng kinh tế là đẩy mạnh CNH, ưu tiên phát triển Công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đưa VN trở thành một nước công – nông nghiệp hiện đại, văn hoá và Khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc.
ĐH còn bổ sung Điều lệ Đảng, thay chức danh Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng là TBT. ĐH bầu BCH TƯ gồm 101 ủy viên chính thức, BCT gồm 14 ủy viên. Đc Lê Duẩn được bầu làm TBT.
     Đây là ĐH toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên CNXH.

     5. Đại Hội V
   
     Diễn ra từ ngày 27-31/3/1982 tại Hà Nội. Dự Đh có 1033 đại biểu thay mặt cho hơn 1.7 triệu đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở.
     ĐH thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế xã hội trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80, Báo cáo về xây dựng Đảng.
     ĐH xác định nhiệm vụ của Đảng là xây dựng thành công CNXH, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc VN XHCN.
     ĐH xác định nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng lúc này là tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một Đảng thật sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng.
     ĐH bầu BCH TƯ gồm 116 ủy viên chính thức, 36 ủy viên dự khuyết. Bộ chính trị gồm 13 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết, Ban bí thư gồm 10 đc, đc Lê Duẩn được bầu lại giữ chức vụ TBT.
ĐH V đã có những bước tìm tòi bước đi trên con đường quá độ lên CNXH, trước hết là về mặt kinh tế.

     6. Đại Hội VI
   
     Diễn ra từ ngày 15-18/12/1986 tại Hà Nội. Có 1129 đc tham dự, thay mặt cho gần 1.9 triệu Đảng viên cả nước. Tinh thần của ĐH là “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”.
     ĐH khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành ĐH.
Báo cáo chính trị của ĐH rút ra 4 bài học kinh nghiệm của thời kỳ trước: Một là, trong toàn bộ hoạt động của Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”; Hai là Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế , tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; Ba là kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; Bốn là chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc CMXHCN.
     ĐH xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH XHCN trong chặng đường tiếp theo.
    ĐH xác định mục tiêu cụ thể về KTXH cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế trong đó đặc biệt chú trọng 3 chương trình kinh tế lớn là: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng và hoàn thiện một bước QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX; tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội, việc làm, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ vững kỷ cương phép nước; bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng - an ninh.
     ĐH nêu ra 5 phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế xã hội và đề ra hệ thống giải pháp để thực hiện mục tiêu như: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN; sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế (coi kinh tế có nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ); đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xóa bỏ cơchế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế hoạch hóa theo phương hướng hạch toán kinh doanh XHCN; phát huy động lực của khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại.
     ĐH đưa ra thực hiện khẩu hiệu: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
BCH TƯ được bầu mới gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. BCH TƯ bầu Bộ chính trị gồm 13 ủy viên chính thức, 1 dự khuyết. Ban bí thư gồm 13 đc, đc Nguyễn Văn Linh được bầu làm TBT.
     ĐH VI là ĐH kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết để tiến lên. ĐH có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên CNXH và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cuộc CMVN.

     7. Đại Hội VII
    
     Diễn ra từ ngày 24-27/6/1991 tại Hà Nội. Dự đại hội có 1176 đại biểu thay mặt cho trên 2 triệu đảng viên trong cả nước.
     Nhiệm vụ của ĐH là phải định hướng đúng đắn, vạch ra đường lối để đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
     ĐH thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, Báo cáo chính trị, Báo cáo xây dựng Đảng là sửa đổi Điều Lệ Đảng, kiểm điểm sự lãnh đạo của BCH TƯ VI.
     Cương lĩnh chỉ ra 6 đặc trưng của CNXH: một là XH XHCN là XH do nhân dân lao động làm chủ; hai là có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; ba là có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bốn là con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công; làm theo năng lực, hưởng theo lao động; có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; năm là các dân tộc trong nước cùng bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; sáu là có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
     Cương lĩnh vạch ra 7 phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: một là xây dựng NN XHCN, NN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hai là phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại, phát triển một nền nông nghiệp toàn diện; ba là thiết lập quan hệ sản xuất từ thấp đến cao, đa dạng về hình thức sở hữu và phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất; bốn là tiến hành CM XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; năm là thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc; sáu là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược của CMVN; bảy là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
     ĐH xác định quá độ là một quá trình lầu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là thông qua đổi mới toàn diện, XH đạt trạng thái ổn định, vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
     ĐH xác định ĐCSVN là đội tiên phong của GCCN VN, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và cả dân tộc. Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tu tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược các định hướng về chính sách và chủ trương công tác...Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
     ĐH bầu ra BCH TƯ gồm 146 ủy viên, Bộ chính trị gồm 13 đc, Ban bí thư gồm 9 đc. Đc Đỗ Mười được bầu làm TBT. Các đc Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được giao trọng trách làm cố vấn BCH TƯ.
ĐH VII là “ĐH của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”.

     8. Đại Hội VIII
   
     Diễn ra từ ngày 28/6-1/7/1996 tại Hà Nội. Dự Đh có 1198 đại biểu thay mặt cho 2.130.000 đảng viên trong cả nước.
     ĐH thông qua Báo cáo chính trị, Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (1996-2000), Điều lệ Đảng (sửa đổi, bổ sung).
     ĐH phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
ĐH chủ trương xây dựng nền kinh tế mở; lấy việc phát huy con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
      ĐH xác định khoa học - công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
     ĐH bầu BCHTƯ gồm 170 ủy viên. Bộ Chính trị gồm 19 ủy viên. Đc Đỗ Mười tiếp tục được bầu làm TBT. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công tiếp tục làm BCV TƯ.
     ĐH đánh dấu bước ngoặt chuyển đát nước ta sang thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng nước VN độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng XHCN, vì hạnh phúc của nhân dân, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. ĐH có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI.

     9. Đại Hội IX:

     Diễn ra từ ngày19-22/4/2001 tại Hà Nội. Dự ĐH có 1168 đại biểu thay mặt cho 2.479.719 đảng viên trong cả nước.
     Chủ đề của ĐH là “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc VN XHCN”.
     ĐH thông qua Báo cáo chính trị, chiến lược phát triển kinh tế XH 2001-2010, Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển KTXH 2001-2005, Báo cáo về bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; báo cáo kiểm điểm của BCH TƯ khóa VIII, Báo cáo tình hình Nghị quyết TƯ 6 (lần 2).
     ĐH rút ra 4 bài học kinh nghiệm từ ĐH VI-VIII: một là trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; hai là đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn và luôn sáng tạo; ba là đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; bốn là đường lối đổi mới của Đảng là nhân tố quyết đinh thành công của sự nghiệp đổi mới.
     ĐH đưa ra định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh : “ Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CM VN, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc...”
     ĐH xác định mục tiêu chung của CMVN là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
     ĐH xác định nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong bối cảnh mới hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng XH, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xâ dựng, bảo vệ Tổ quốc.
    ĐH xác định động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cở sở liên minh giữ công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội.
     ĐH xác định đường lối kinh tế là đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN.
     ĐH xác định kinh tế nhiều thành phần ở nước ta gồm (6 thành phần): kinh tế NN, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể-tiểu chủ, kinh tế Tư bản tư nhân, kinh tế Tư bản Nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (mới bổ sung tại ĐH này).
     ĐH bầu BCH TƯ gồm 150 ủy viên, Bộ chính trị 15 đc. Đc Nông Đức Mạnh được bầu làm TBT.
     ĐH IX là ĐH của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc trong thời điểm lịch sử trọng đại bước vào thế kỷ mới và thiên niên kỷ mới.

     10. Đại Hội X:

     Diễn ra từ ngày 18-25/4/2006 tại Hà Nội. Dự ĐH có 1176 đại biểu thay mặt cho 3.1 triệu đảng viên trong cả nước.
     Chủ đề của ĐH: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.
     ĐH xác định: “XH XHCN mà Đảng và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng VN bình đẳng, đoàn kết tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
     ĐH xác định mục tiêu: đến năm 2010 GDP tăng gấp 2.1 lần so với năm 2000; trong 5 năm 2006-2010: mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 7.5-8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm. Cơ cấu ngành trong GDP: nông nghiệp: 15-16%, công nghiệp và xây dựng: 43-44%, dịch vụ: 40-41%; tạo việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị dưới 5% vào 2010 và tỷ lệ hộ nghèo giảm 10-11% năm 2010.
     ĐH xác định nhiệm vụ và giải pháp thực hiện để đạt được mục tiêu trên: Tiếp tục hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với nền kinh tế tri thức; giải quyết các vấn đề XH, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ; tăng cường quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy dân chủ với sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.
     ĐH bầu BCH TƯ gồm 160 ủy viên chính thức, 21 dự khuyết. Bộ chính trị gồm 14 ủy viên, Ban bí thư gồm 8 đc. Đc Nông Đức Mạnh tiếp tục được bầu làm TBT.

     11. Đại hội XI:

     Đại hội lần thứ XI của Đảng chính thức diễn ra từ ngày 12 đến 19/01/2011 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình với sự tham dự của 1.377 đại biểu, đại diện cho hơn 3,6 triệu đảng viên sinh hoạt ở gần 54.000 tổ chức cơ sở Đảng.

     Chủ đề Đại hội: "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại".

     Đồng chí Nguyễn Minh Triết, Ủy viên Bộ Chính trị (khóa X), Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đọc Diễn văn khai mạc Đại hội. Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) trình bày Báo cáo về các văn kiện Đại hội XI của Đảng. Đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X trình bày Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.

     III. Các đồng chí Tổng bí thư qua các thời kỳ

ẢnhHọ và tênNhiệm kỳChức vụ
TrinhDinhCuu.jpgTrịnh Đình Cửu3 tháng 2, 1930 - 27 tháng 10, 1930
0 năm, 266 ngày
Phụ trách Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam.
TranPhu.gifTrần Phú27 tháng 10, 1930 - 6 tháng 9, 1931
0 năm, 314 ngày
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
LeHongPhong.gifLê Hồng Phong21 tháng 6, 1934 - 31 tháng 3, 1935
0 năm, 283 ngày
Bí thư Ban Chỉ huy hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương.
31 tháng 3, 1935 - 26 tháng 7, 1936
1 năm, 117 ngày
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
HaHuyTap.gifHà Huy Tập31 tháng 3, 1935 - 26 tháng 7, 1936
1 năm, 117 ngày
Bí thư Ban Chỉ huy hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương.
26 tháng 7, 1936 - 30 tháng 3, 1938
1 năm, 247 ngày
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
NguyenVanCu.gifNguyễn Văn Cừ30 tháng 3, 1938 - 9 tháng 11, 1940
2 năm, 224 ngày
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
TruongChinh.gifTrường Chinh9 tháng 11, 1940 - 19 tháng 5, 1956
15 năm, 320 ngày
Quyền Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
(Từ 1941)
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.
(Từ 1951)
Ho Chi Minh 1946 cropped.jpgHồ Chí Minh19 tháng 2, 1951 - 2 tháng 9, 1969
18 năm, 195 ngày
Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.
LeDuan.gifLê Duẩn10 tháng 9, 1960 - 10 tháng 7, 1986
25 năm, 303 ngày
Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
(Từ 1976)
TruongChinh.gifTrường Chinh14 tháng 7, 1986 - 18 tháng 12, 1986
0 năm, 161 ngày
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
NguyenVanLinh.gifNguyễn Văn Linh18 tháng 12, 1986 - 28 tháng 6, 1991
4 năm, 192 ngày
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Do Muoi cropped.jpgĐỗ Mười28 tháng 6, 1991 - 26 tháng 12, 1997
6 năm, 181 ngày
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Le Kha Phieu.JPGLê Khả Phiêu26 tháng 12, 1997 - 22 tháng 4, 2001
3 năm, 116 ngày
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nong Duc Manh 2010.jpgNông Đức Mạnh22 tháng 4, 2001 - 19 tháng 1, 2011
9 năm, 273 ngày
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyen Phu Trong.jpgNguyễn Phú Trọng19 tháng 1, 2011 - nay
1 năm, 306 ngày
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa XI (nhiệm kỳ 2011 - 2015) gồm có 14 đồng chí:
1. Đồng chí Trương Tấn Sang,
2. Đồng chí Phùng Quang Thanh,
3. Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng,
4. Đồng chí Nguyễn Sinh Hùng,
5. Đồng chí Lê Hồng Anh,
6. Đồng chí Lê Thanh Hải,
7. Đồng chí Tô Huy Rứa,
8. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng,
9. Đồng chí Phạm Quang Nghị,
10. Đồng chí Trần Đại Quang,
11. Đồng chí Tòng Thị Phóng,
12. Đồng chí Ngô Văn Dụ,
13. Đồng chí Đinh Thế Huynh,
14. Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc.
- Ban Bí thư TW Đảng gồm có 4 đồng chí:
1. Đồng chí Ngô Xuân Lịch,
2. Đồng chí Trương Hòa Bình,
3. Đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân,
4. Đồng chí Hà Thị Khiết.
- Ủy ban Kiểm tra TW Đảng gồm có 21 đồng chí do  đồng chí Ngô Văn Dụ làm Chủ nhiệm.

Đóng góp ý kiến Bản in
Họ và tên
Nội dung hỏi
  Mã xác nhận: 2236

Lượt truy cập: 369668 lần

Đang online: 1 người